Khái niệm kinh tế thị trường và cơ chế thị trường

Rate this post

Báo cáo thực tập nhân sự xin chia sẻ tới các bạn sinh viên tài liệu về Khái niệm kinh tế thị trường và cơ chế thị trường để các bạn làm tài liệu tham khảo và học tập cho mình trong quá trình viết báo cáo thực tập của mình được tốt nhất.
Theo từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý (chủ biên) kinh tế thị trường được định nghĩa là “Giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa được quyết định bởi thị trường, là sự hoạt động và mở rộng khách quan của quan hệ hàng – tiền và những quy luật giá trị là đặc trưng nhất”.[6].
Theo từ điển điện tử bách khoa toàn thư: Kinh tế thị trường là nền kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo. những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung bởi các cá nhân người tiêu dung và các công ty. Việc định giá hàng hóa và phân bổ nguồn lực nền kinh tế cơ bản được tiến hành theo quy luật cung- cầu. Trái với kinh tế thị trường là kinh tế hóa tập trung.

Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin có định nghĩa: “KTTT là mô hình kinh tế mà ở đó các mối quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường thông qua quá trình trao đổi- mua bán. Quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. KTTT là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất”.[1].
Theo tôi kinh tế thị trường là một mô hình mà ở đó có các mối quan hệ trao đổi- mua bán, quan hệ hàng – tiền, người cung cấp- người sử dụng…
Khi nói đến các quy luật sản xuất hàng hóa của KTTT, chúng ta phải nói đến cơ chế thị trường. Theo các nhà Kinh tế học thì cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường. Nói đến cơ chế thị trường là nói đến cơ chế tự vận động của thị trường theo quy luật nội tại vốn có của nó mà Nhà Kinh tế học người Anh thế kỉ XVIII A.Smith đã hình dung nó như “bàn tay vô hình”, trong đó có một loạt các quy luật kinh tế cùng vận động và quan hệ hữu cơ
với nhau. Đó là các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật lưu thông tiền tề, quy luật lợi nhuận, cạnh tranh.. Sự vận động của các quy luật này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Ảnh hƣởng của kinh tế thị trƣờng đối với đời sống xã hội
KTTT xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội là một tất yếu khách quan. KTTT không có nghĩa là đồng nhất với Chủ nghĩa Tư bản vì nó là sản phẩm chung của toàn nhân loại trong quá trình sản xuất hàng hóa và phát triển của xã hội. Hiện nay nền kinh tế của các nước trên thế giới đều đã, đang phát triển theo hướng KTTT (tuy rằng mỗi nước có một mô hình kinh tế riêng phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế – xã hội…). Ở nước ta KTTT được đánh dấu từ Đại hội lần VI của Đảng (12-1986) thực sự chuyển từ nền kinh tế hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.

Sau gần 30 năm thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bộ mặt đất nước ta đang có sự thay đổi từng ngày và nhanh chóng. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, cơ sở hạ tầng lạc hậu, nền kinh tế nghèo nàn và đời sống nhân dân vô cùng khó khăn đến nay, nhờ phát triển KTTT theo định hướng Xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lí của Nhà nước, nước ta đã và đang khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Nước ta là thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như ASEAN, WTO, Liên hợp quốc và mới đây trở thành ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam đang là nước đững thứ 2 thế giới về xuất khẩu gao, cà phê và hạt điều, đứng thứ 4 về xuất khẩu cao su, đứng thứ 1 về xuất khẩu hạt tiêu và là một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu thủy sản và hàng may mặc. Nước ta đang được đánh giá là một trong những nước có tốc độ phát triển Internet và viễn thông nhanh nhất thế giới. Trước những năm đổi mới, cơ sở vật chất, giao thông thủy lợi nước ta xếp hàng lạc hậu. Song cho đến nay, hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt… được nâng cấp và xây dựng mới với chất lượng tốt, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp được xây dựng ngày càng nhiều trên khắp mọi miền của tổ quốc, đời sống nhân dân được cải thiện hơn. KTTT tạo sự năng động cho tất cả các thành phần kinh tế, từ vùng núi, nông thôn tới thành thị. Ở đó mỗi cá nhân có thể phát huy hết khả năng của mình, đáp ứng yêu cầu và khẳng định được mình trong xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực mà nền KTTT đem lại, chúng ta cũng thấy được mặt trái của nó (đặc biệt là trong thời kì quá độ lên nền KTTT hoàn chỉnh như ở nước ta hiện nay) gây ảnh hưởng không nhỏ đến tất cả các mặt của đời sống.
KTTT phát triển làm gia tăng khoảng cách giàu – nghèo trong xã hội. Nó làm cho sự phân biệt giàu nghèo ngày càng trở nên nghiêm trọng. Trong bước chuyển đổi đi vào kinh tế thị trường, điều kiện của các chủ thể sản xuất

luôn biến đổi, họ có cơ hội phát triển, có điều kiện và có cả những sa sút thất bại… Do nhiều nguyên nhân, một bộ phận dân số không có khả năng để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, nhu cầu tối thiểu của con người. Cuộc sống của họ gắn liền với đói nghèo và lạc hậu, đặc biệt là ở các vùng núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu – vùng xa, vùng thuần nông nghiệp. Bộ phận này không chỉ nghèo trong việc hưởng thụ các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa mà còn nghèo khổ cả về lương thực, thực phẩm phục vụ cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, một bộ phận dân cư (đặc biệt ở thành thị, trung tâm dịch vụ thương mại) giàu lên nhanh chóng. Họ đã giàu lại càng giàu hơn. Sự gia tăng và phân hóa giàu nghèo đã kéo theo hàng loạt những tệ nạn và bất bình đẳng trong xã hội. Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp làm sao cho mọi người dân đều được hưởng những phúc lợi của xã hội, giảm thiểu sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, làm cho xã hội ngày càng phát triển theo tinh thần Xã hội chủ nghĩa.
KTTT còn làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như lạm phát, đầu cơ tích trữ (xăng dầu, lương thực…) gây ra biến động giá cả, các tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, cờ bạc, hàng giả, hàng kém chất lượng, tệ nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em, tuyên truyền văn hóa phẩm đồ trụy…), ô nhiễm môi trường.. Tất cả đang trở thành vấn đề toàn cầu đòi hỏi cả thế giới phải quan tâm.
Một trong những vấn đề phải kể đến đó là sự ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến sự định hướng giá trị của thế hệ trẻ. Giá trị đạo đức truyền thống là kết quả của sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nhân loại, phát triển những giá trị dân tộc trong suốt 4000 năm lịch sử. Nó thể hiện trong lối sống, quan điểm, quan hệ gia đình, dòng tộc… Từ khi KTTT phát triển, đất nước mở cửa giao lưu văn hóa, giao thương kinh tế hòa nhập với thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, giáo dục thì xã hội có rất nhiều thay đổi. Thay đổi từ lối sống, chuẩn mực giao tiếp, quan hệ giữa người với người…

Hiện nay một bộ phận có lối sống hưởng thụ, thực dụng, buông thả, dễ dàng sa ngã vào các tệ nạn ma túy, mại dâm. Số đó đang quay lưng lại với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Đồng tiền đã và đang trở thành thước đo giá trị trong nhiều mối quan hệ xã hội. Chính vì vậy xuất hiện lan tràn những bộ phận tham nhũng, bòn rút tài chính của quốc gia. Đồng tiền đã len lỏi vào từng ngõ ngách của cuộc sống kể cả trong môi trường được coi là lành mạnh nhất- môi trường giáo dục. Nó đã làm hoen ố mối quan hệ mà từ trước tới nay cả xã hội tôn thờ, quan hệ thầy trò. Bên cạnh bộ phận thanh niên cầu tiến thì còn một bộ phận không nhỏ có cuộc sống không lành mạnh, họ đang dần làm mất đi bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc 4000 năm văn hiến. Cùng với lối sống hưởng thụ là tâm lí tiêu dùng, các giá trị vật chất đang lấn át các chuẩn mực đạo đức và phẩm chất nhân cách con người. Nhiều phong tục, nếp sống của các gia đình đang dần trở nên mai một dần. Thay vì việc các thành viên trong gia đình sống gắn bó, khăng khít với nhau thì nay, mỗi người lại đang hướng đến cuộc sống cá nhân(mỗi người có phòng riêng, đồ dùng riêng…). Việc tiêu dùng hoang phí “sống ngày nay không cần biết đến ngày mai” được coi là giá trị của một người. Vì đồng tiền cha mẹ sao nhãng việc chăm lo cho con cái, mọi nhu cầu của con đều được giải quyết bằng tiền… Nhiều đứa trẻ mang trọng tội vì thiếu sự quan tâm chăm sóc của gia đình người thân. Ngày càng có nhiều đứa trẻ bị bỏ roi khiến chúng ta nhìn mà đau xót. Tình trạng li hôn trong các gia đình trẻ ngày một gia tăng do lối sống ích kỉ, vô trách nhiệm của các thành viên. Một trong những nguyên nhân dẫn đến điều đó là do sự chiều chuộng quá mức, đáp ứng mọi nhu cầu một cách dễ dàng của bố mẹ chúng nên hình thành ở chúng lối sống ích kỉ, hưởng thụ và tâm lí có tiền là có tất cả. Gia đình truyền thống xưa của chúng ta sống hài hòa giữa các thế hệ. nhưng ngày nay, xu hướng thích ra ở riêng, độc lập rất phổ biến. mỗi thành viên nhỏ trong gia đình luôn muốn tìm không gian riêng cho mình. Điều đó làm cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên nhạt hơn. Đây là một vấn đề đòi hỏi xã hội nói chung, gia đình nói riêng phải có cái nhìn đúng đắn để cùng nhau đưa ra biện pháp giải quyết tạo sự gắn bó giữa người với người trong gia đình và toàn xã hội.
Như vậy chúng ta thấy KTTT làm cho bộ mặt của nước ta thay đổi một cách đáng kể theo hướng tích cực. Bên cạnh đó cũng phải nhìn nhận một cách khách quan những tiêu cực mà nó gây ra. Tất cả những điều đó đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản là sự tiếp nhận, vận dụng và lợi dụng các tác động từ các quy luật của nền kinh tế thị trường một cách tiêu cực trên cơ sở nhận thức sai lầm. Để giải quyết tốt vấn đề trên là cả một quá trình lâu dài, là trách nhiệm của toàn xã hội trong đó có giáo dục và định hướng nghề nghiệp.

Ngoài ra các bạn tham khảo bài viết: Nghiên cứu trên thế giới về vấn đề lựa chọn nghề nghiệp hiện nay

Hy vọng với những chia sẻ của chúng tôi sẽ giúp các bạn hoàn thành được các bài báo cáo thực tập nhân sự được tốt nhất!

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo